Đặc điểm cấu trúc và sinh thái loài Thông 5 lá (Pinus dalatensis de Ferre) Tại Vườn Quốc gia Bidoup Núi bà tỉnh Lâm Đồng
Lê Cảnh Nam, Lưu Thế Trung, Bùi Thế Hoàng, Lương Văn Dũng, Phạm Xuân Nguyên
TÓM TẮT
Thông năm lá (Pinus dalatensie de Ferre) được nhà thực vật học người Pháp tên Y. de Ferre mô tả và công bố lần đầu tiên vào năm 1960 trên cơ sở các mẫu vật thu được ở Trại Mát (Tp. Đà Lạt) và từ trạm Chư Yang Sin (Đăk Lăk). Thông năm lá là loài đặc hữu của Việt Nam và có phân bố tự nhiên tập trung ở Cao nguyên Langbian, Cao nguyên Ngọc Linh, Cao nguyên Plâyku và ở Thừa Lưu – Huế. Trong vùng phân bố, Thông năm lá có phân bố trong kiểu rừng hỗn giao cây lá rộng và lá kim, ở độ cao từ 1400m – 1900m so với mặt nước biển. Thông năm lá có phân bố cụm ở đỉnh đồi và rải rác ở sườn và chân đồi. Thông năm lá mọc hỗn giao với các loài cây Bạch tùng, Hồng tùng, Pơ mu, Thông tre, Thông 2 lá dẹt và các loài cây lá rộng khác thuộc họ Dẻ, Long não với tầng thảm mục dày (>20cm). Trong vùng phân bố tập trung của loài tại Vườn Quốc gia Bidoup Núi bà tỉnh Lâm Đồng, các tuyến điều tra được thiết lập với cự ly tuyến cách tuyến 200m. Trên mỗi tuyến, các ô tiêu chuẩn tạm thời 2500m2 được thiết lập với cự ly cách nhau 100m. Tổng số 40 ô tiêu chuẩn 2500m2 đã điều tra. Kết quả cho thấy, mật độ trung bình của lâm phần có loài Thông năm lá phân bố là 853 cây/ha (D1.3 ³10cm), chiều cao trung bình Hvntb =17,2m và đường kính ngang ngực bình quân D1.3 = 23,6cm. Các lâm phần có sự hiện diện của Thông năm lá rất đa dạng về thành phần loài với khoảng 100 loài xuất hiện thuộc 62 chi và 35 họ thực vật thân gỗ. Số lượng cá thể Thông năm lá trong lâm phần thường thấp, mật độ trung bình là 19cây/ha, đa phần ở trạng thái thành thục và quá thành thục với đặc trưng đường kính trung bình và chiều cao vút ngọn trung bình lớn, tương ứng là D1.3tb = 54,8cm và Hvntb = 24,6m. Thông năm lá là 1 trong 10 loài ưu thế trong sinh thái quần thể với chỉ số quan trọng loài IV% = 5,0%. Thông năm lá có quan hệ tương hỗ với Thông 2 lá dẹt, (Pinus krempfii), Côm cuống dài (Elaeocarpus lanceifolius Roxb.) và có quan hệ ngẫu nhiên với các loài Cáp mộc Bidoup (Craibiodendron heryi W.W.Smith var bidoupensis Smith&Phamh), Trâm đỏ (Syzygium zeylanicum (L.) DC), Trâm trắng (Syzygium wightianum Wall. ex Wight et Arn), Cáp mộc VN (Craibiodendron vietnamense Judd), Kha thụ nhím (Castanopsis echidnocarpa Miq).
Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp, số 2 (2016), trang 4315-4325